Sáng 21/3, UBND thành phố tổ chức họp nghe báo cáo đề cương nhiệm vụ và dự toán xây dựng 5 xã lên phường. Đồng chí Doãn Quốc Hoàn - Phó Bí thư thành ủy, Chủ tịch UBND thành phố chủ trì cuộc họp. Cùng dự còn có đồng chí Phạm Quốc Hoàn - Uỷ viên Ban thường vụ thành ủy, Phó Chủ tịch Thường trực UBND thành phố; đồng chí Bùi Tuấn Anh - Phó chủ tịch UBND thành phố; đại diện lãnh đạo một số phòng, đơn vị chuyên môn thành phố, lãnh đạo UBND các phường, xã.
Toàn cảnh hội nghị
Tại cuộc họp, các đại biểu đã nghe đơn vị tư vấn trình bày báo cáo đề cương nhiệm vụ và dự toán xây dựng Đề án 5 xã lên phường; đề cương và dự toán chương trình phát triển đô thị, Quy chế quản lý kiến trúc đô thị trên địa bàn thành phố. Quy hoạch chung xây dựng các xã lên phường được UBND thành phố xác định là nhiệm vụ cần thiết, quan trọng, thiết thực góp phần định hướng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội của từng địa phương trong giai đoạn trước mắt và lâu dài.
Theo đó, Đồ án quy hoạch chung xây dựng xã lên phường phải phù hợp với tình hình mới trên cơ sở rà soát, điều chỉnh quy hoạch xây dựng Nông thôn mới (NTM) trước đây đã được phê duyệt, bảo đảm tính định hướng lâu dài, đồng bộ, kết nối, sát với tình hình thực tế. Trong quá trình lập quy hoạch phải tuân thủ các quy hoạch đã được cấp trên phê duyệt như quy hoạch xây dựng vùng, quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch phát triển giao thông vận tải trên địa bàn... Đồng thời, quy hoạch chung xây dựng xã bảo đảm sự kết nối về hạ tầng giao thông, hạ tầng kỹ thuật giữa các địa phương lân cận, nhất là về quy mô, cấp mức của kết cấu giao thông đường bộ; đảm bảo phát huy tối đa tiềm năng, thế mạnh, lợi thế so sánh làm cơ sở để phát triển kinh tế - xã hội của từng địa phương.
Các đại biểu dự cuộc họp đã thảo luận, đóng góp ý kiến vào Đồ án quy hoạch chung của từng xã. Các ý kiến đống góp của đại biểu về đồ án quy hoạch tại các xã được thống nhất với những điểm chung như: mở rộng diện tích các khu hành chính; các trung tâm văn hóa – thể thao; xây dựng mới các trụ sở; xác định các trục giao thông trọng điểm; khu dân cư, tái định cư phát triển mới; công viên cây xanh...
Kết luận nội dung này, đồng chí chủ tịch UBND thành phố Doãn Quốc Hoàn yêu cầu phòng Nội vụ thành phố, phòng Quản lý đô thị thành phố phối hợp với các đơn vị liên quan tập trung đẩy nhanh tiến độ thực hiện các bước của Đề án, đồng thời tham mưu với UBND thành phố các khâu, các bước đảm bảo đúng quy định, trình tự thủ tục.
Cũng tại cuộc họp, đã nghe phòng Quản lý Đô thị thành phố báo cáo đề xuất chủ trương đầu tư thành phố báo cáo thẩm định các Dự án. Theo đề xuất thẩm đinh, thành phố hiện có 28 công trình, dự án đang trong quá trình thực hiện các bước theo quy định. Để việc thực hiện các công trình, dự án đảm bảo tiến độ, đảm bảo quy định, đồng chí chủ tịch UBND thành phố Doãn Quốc Hoàn yêu cầu các đơn vị liên quan của thành phố rà soát tổng mức đầu tư các công trình sát với nhu cầu thực tế, đồng thời nghiên cứu, bổ sung các hạng mục cần thiết vào các công trình, dự án đảm bảo đúng quy định./.
Nguyễn Hồng – Xuân Điệu (Trung tâm Văn hóa và Truyền thanh thành phố)
Thực hiện Chương trình chuyển đổi số (CĐS) quốc gia do Thủ tướng Chính phủ phát động, thời gian qua, với vai trò xung kích, sáng tạo của thanh niên (TN), các ngành, địa phương, doanh nghiệp trong tỉnh đã đẩy mạnh CĐS, ứng dụng công nghệ thông tin (CNTT) vào quản lý, chỉ đạo, điều hành, tổ chức sản xuất, kinh doanh. Công nghệ số đang dần đi vào cuộc sống, tạo động lực mới trong phát triển kinh tế - xã hội.
Thanh niên tham gia chương trình “số hoá những địa chỉ đỏ”
Năm 2022, Sở Nội vụ chính thức vận hành hệ thống phần mềm đánh giá công chức, viên chức, người lao động (CC,VC,NLĐ), sau gần 2 năm tổ nghiên cứu, trong đó chủ công là đội ngũ cán bộ trẻ phối hợp với đơn vị tư vấn chỉnh sửa, thử nghiệm. Phần mềm cho phép mỗi CB,CC,NLĐ được truy cập 1 tài khoản cá nhân. Qua phần mềm, mỗi CB,CC,NLĐ nhận nhiệm vụ, xử lý công việc và khớp lệnh kết thúc thời gian thực hiện; cấp lãnh đạo, quản lý có thể theo dõi tiến độ, kịp thời nắm bắt, tháo gỡ những nhiệm vụ gặp khó khăn hoặc chậm tiến độ...
Dịch Covid-19 bùng phát, các nhà trường phải chuyển dạy học trực tiếp sang trực tuyến đã thêm một lần nữa cho thấy CNTT, CĐS ngày càng đóng vai trò quan trọng và là hướng đi bắt buộc trong ngành giáo dục và đào tạo. Các nhà giáo, đặc biệt là đội ngũ giáo viên trẻ nhanh chóng tiếp cận CNTT, thiết kế bài giảng trực tuyến (E-Learning) chất lượng để tạo sức hút với học sinh, khắc phục hạn chế khi không trực tiếp quan sát, đôn đốc được học sinh theo dõi, ghi chép bài như phương pháp dạy học truyền thống. Áp dụng phương thức giảng dạy hiện đại, những bài giảng, giờ thí nghiệm bớt khô khan, hấp dẫn học sinh hơn.
CĐS đang diễn ra mạnh mẽ, tác động đến mọi mặt của đời sống xã hội. CĐS giúp doanh nghiệp, cơ sở sản xuất, kinh doanh tiết giảm chi phí, hạ giá thành sản phẩm, dịch vụ, nâng sức cạnh tranh trên thị trường. Năm 2018, trong cuộc thi ý tưởng sáng tạo TN khởi nghiệp tỉnh Hưng Yên, dự án FaGo (Farmer Growt) có nghĩa là “Nông dân bứt phá” của anh Phạm Hồng Sơn (thành phố Hưng Yên) giành giải nhì; sau đó được Hội Liên hiệp thanh niên Việt Nam vinh danh là 1 trong 10 dự án TN khởi nghiệp tiêu biểu toàn quốc. Anh Sơn cho biết: Chỉ với một tủ điều khiển, một bộ cảm biến nhiệt, hệ thống thiết bị FaGo kết nối với điện thoại thông minh, các chủ trang trại có thể quản lý được sức khỏe của vật nuôi, nhiệt độ chuồng trại, điều khiển hệ thống làm mát, liên kết, trao đổi thông tin với các chuyên gia kỹ thuật về chăn nuôi, thú y có kinh nghiệm... Đến nay, FaGo đã cung cấp giải pháp công nghệ cho khoảng 600 trang trại ở trong và ngoài nước. Không dừng lại ở đó, năm 2021, dự án Chuyển đổi xe ô tô thông minh ứng dụng công nghệ IoT (Internet vạn vật) của anh Sơn cùng cộng sự được Bộ Thông tin và Truyền thông chọn là một trong 10 ứng dụng thu hẹp khoảng cách số “Made in Việt Nam”...
Thực tế, CĐS giúp doanh nghiệp chuyển từ mô hình kinh doanh truyền thống sang mô hình sản xuất, kinh doanh thông minh. CĐS, áp dụng công nghệ số giúp doanh nghiệp nâng cao hiệu quả quản trị. Với doanh nghiệp số như Viettel Hưng Yên, để có giải pháp công nghệ tốt nhất cung cấp cho khách hàng thì CĐS luôn phải đi trước một bước. Trong đó, đổi mới, sáng tạo phụ thuộc nhiều vào nguồn nhân lực trẻ. Đồng chí Bùi Văn Quyền, Phó Giám đốc giải pháp CNTT của Viettel Hưng Yên cho biết: Thời gian qua, Viettel Hưng Yên đã tham mưu, tư vấn, hỗ trợ CĐS cho các cơ quan, doanh nghiệp, Nhân dân trên 4 nội dung: Chính quyền số, kinh tế số, xã hội số, doanh nghiệp số. Nổi bật là dự án lắp đặt hệ thống phòng họp trực tuyến từ tỉnh tới các thôn, tổ dân phố; dự án trung tâm điều hành thông minh; hệ thống camera an ninh, giao thông ứng dụng trí tuệ nhân tạo AI...
Thực hiện sự chỉ đạo của Ban Thường vụ Tỉnh ủy, UBND tỉnh, định hướng của Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh, thời gian qua, các ngành, địa phương, các cấp bộ đoàn đã triển khai nhiều hoạt động cụ thể nhằm phát huy sức sáng tạo, tinh thần xung kích của tuổi trẻ trong phong trào thi đua ứng dụng CNTT, CĐS. Đến nay, toàn tỉnh có gần 1.000 tổ CĐS cộng đồng với gần 7 nghìn thành viên, trong đó 50% số thành viên là ĐVTN. Các tổ có nhiệm vụ hướng dẫn người dân truy cập Internet, thực hiện các dịch vụ công trực tuyến... 100% số CB,CC là TN xử lý thành thạo công việc trên môi trường mạng; nhiều ĐVTN trong doanh nghiệp, HTX, hộ kinh doanh nhờ sự đồng hành, hỗ trợ của tổ chức Đoàn và các cơ quan chức năng đã tận dụng lợi thế của CNTT, các ứng dụng điện tử để lập nghiệp thành công. Thời gian qua, Tỉnh đoàn đã xây dựng chương trình “số hoá địa chỉ đỏ”, triển khai đồng loạt tới các cấp bộ đoàn. Qua đó tạo điều kiện để đoàn viên thanh thiếu nhi và người dân dễ dàng tìm hiểu, nhận thức đầy đủ hơn về ý nghĩa, giá trị của các di tích lịch sử - văn hoá trên địa bàn tỉnh, khơi dậy niềm tự hào, tình yêu quê hương, đất nước…
Nghị quyết Hội nghị lần thứ Chín Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh khóa XIX về Chương trình CĐS tỉnh Hưng Yên giai đoạn 2021 - 2025, tầm nhìn đến năm 2030 xác định: CĐS là công cụ quan trọng, xu hướng tất yếu trong lãnh đạo, điều hành kinh tế - xã hội của địa phương và hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, người dân trong cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Mục tiêu đến năm 2025, tỉnh thực hiện 100% dịch vụ công trực tuyến mức độ 3, mức độ 4, trong đó trên 90% dịch vụ công trực tuyến mức độ 4 được cung cấp trên nhiều phương tiện truy cập khác nhau, bao gồm cả thiết bị di động. 100% hoạt động quản lý nhà nước sử dụng văn bản điện tử có chữ ký số, liên thông từ cấp tỉnh đến cấp xã và liên thông quốc gia. Đến năm 2030, tỉnh Hưng Yên thuộc nhóm 20 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương dẫn đầu về CĐS... Để đạt được mục tiêu này, bên cạnh sự vào cuộc tích cực của cấp ủy, chính quyền và cả hệ thống chính trị, rất cần tinh thần xung kích, sáng tạo của lực lượng ĐVTN.
Sản phẩm công nghệ Fago tham gia triển lãm giới thiệu giải pháp công nghệ toàn quốc năm 2022
Công nghệ số với những lợi thế đặc biệt: Trí tuệ nhân tạo AI, Điện toán đám mây, Công nghệ chuỗi khối Blockchain... giúp các cơ quan, doanh nghiệp, cá nhân lưu trữ khối lượng thông tin lớn, thuận lợi trong quản lý, điều hành, giải phóng sức lao động. Nhưng nó cũng là thách thức, nhất là sự xuất hiện của phần mềm ChatGPT cho thấy, nếu chúng ta không làm chủ được công nghệ, không vượt qua được cám dỗ của những trò chơi công nghệ trá hình, phụ thuộc công nghệ mà không thường xuyên học tập, đổi mới, sáng tạo thì chính con người mất cơ hội kiểm soát công nghệ, mất việc làm do công nghệ thay thế, dẫn đến tương lai thất nghiệp, trì trệ, lười nhác. Làm thế nào để TN Hưng Yên làm chủ được công nghệ số để học tập, khởi nghiệp, lập nghiệp, đóng góp cho sự phát triển của quê hương; TN thể hiện rõ vai trò tiên phong trong cuộc cách mạng 4.0, cuối tháng 2 vừa qua, Ban Thường vụ Tỉnh đoàn tổ chức lễ khởi động tháng Thanh niên với chủ đề “Tuổi trẻ Hưng Yên tiên phong CĐS các hoạt động của Đoàn”. Hội nghị đối thoại giữa lãnh đạo tỉnh với TN có chủ đề “Thanh niên Hưng Yên với CĐS” tổ chức trong tháng 3 này sẽ là cơ hội để TN nắm bắt thông tin, cơ hội và gửi đến các cơ quan chức năng kiến nghị, đề xuất để việc chuyển đổi số, ứng dụng công nghệ trong học tập, công tác và kinh doanh của TN đạt hiệu quả cao nhất.
Ngày 6/3, Trường Chính trị Nguyễn Văn Linh phối hợp với Ban Dân vận Tỉnh ủy tổ chức khai giảng lớp bồi dưỡng lý luận chính trị và kỹ năng nghiệp vụ cho cán bộ dân vận cấp cơ sở. Đồng chí Quách Thị Hương, Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Trưởng ban Dân vận Tỉnh ủy, Chủ tịch Ủy ban MTTQ Việt Nam tỉnh đến dự.
Các đại biểu dự khai giảng
Tham gia lớp bồi dưỡng có 181 học viên là cán bộ dân vận cấp cơ sở trên địa bàn tỉnh. Trong thời gian từ ngày 6/3 đến ngày 9/3, các học viên được học tập các chuyên đề gồm: Công tác dân tộc, tôn giáo trên địa bàn tỉnh hiện nay; thực hiện quy chế dân chủ ở các loại hình cơ sở; công tác dân vận chính quyền trong tham gia phát triển kinh tế - xã hội năm 2023 và những năm tiếp theo; công tác dân vận trong tham gia giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo; nội dung, phương thức thực hiện phong trào thi đua “Dân vận khéo”; công tác bảo vệ môi trường trong giai đoạn hiện nay; quán triệt thực hiện Chỉ thị số 29-CT/TU ngày 22/9/2022 của Ban Thường vụ Tỉnh uỷ về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận trong tình hình mới; tuyên truyền vận động triển khai công tác giải phóng mặt bằng thực hiện các dự án trọng điểm trên địa bàn tỉnh (theo tinh thần Chỉ thị số 15-CT/TU ngày 8/11/2021 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo, thực hiện công tác giải phóng mặt bằng triển khai các công trình dự án trên địa bàn tỉnh Hưng Yên); những giá trị bền vững của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong thời đại ngày nay…
Việc cơ quan chức năng yêu cầu công dân cung cấp Giấy xác nhận thông tin về cư trú khi thực hiện thủ tục hành chính gây khó khăn, phiền hà, sách nhiễu cho công dân, tạo nên bức xúc trong dư luận...
Sổ hộ khẩu. (Nguồn: Vietnam+)
Cục Cảnh sát Quản lý hành chính về trật tự xã hội (C06, Bộ Công an) cho biết, mặc dù Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư đã được Bộ Công an kết nối, chia sẻ tới 60/63 tỉnh thành, nhưng hiện phần lớn các đơn vị có thẩm quyền, cơ quan chức năng không thực hiện, vẫn yêu cầu công dân cung cấp giấy xác nhận cư trú.
Đại tá Vũ Văn Tấn, Phó Cục trưởng Cục Cảnh sát Quản lý hành chính về trật tự xã hội, Bộ Công an cho biết: Thời gian qua, Bộ Công an đã tổ chức kiểm tra, khảo sát trực tiếp và ghi nhận phản ánh của dư luận về việc thực hiện quy định của Nghị định 104/2022/NĐ-CP, liên quan đến việc nộp, xuất trình sổ hộ khẩu, sổ tạm trú giấy, tại bộ phận một cửa tiếp nhận, giải quyết thủ tục hành chính của các địa phương.
Qua khảo sát, kiểm tra thực tế cho thấy, phần lớn các đơn vị có thẩm quyền, chức năng dù có đủ điều kiện tra cứu thông tin trong Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, nhưng không thực hiện, vẫn yêu cầu công dân cung cấp Giấy xác nhận thông tin về cư trú (CT07) khi thực hiện thủ tục hành chính và các giao dịch khác.
Việc này gây khó khăn, phiền hà, sách nhiễu cho công dân, tạo nên bức xúc trong dư luận xã hội, đồng thời vi phạm quy định pháp luật. Nghiêm trọng hơn, những rào cản trên còn gây “mất niềm tin” của người dân đối với công cuộc cải cách thủ tục hành chính của Chính phủ.
Thống kê của Cục C06, Bộ Công an cho thấy, qua công tác vận hành Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, đến thời điểm hiện tại có 60/63 địa phương đã kết nối để phục vụ khai thác thông tin công dân phục vụ giải quyết thủ tục hành chính. Hiện chỉ còn 3 tỉnh chưa kết nối là Gia Lai, Phú Yên, Bắc Kạn.
Một số địa phương có kết quả khai thác, xác thực thông tin công dân trong Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư cao như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Long An, Yên Bái, Điện Biên và Tuyên Quang. Bên cạnh đó, vẫn còn nhiều địa phương mặc dù đã kết nối, đủ điều kiện kết nối nhưng vẫn hạn chế trong khai thác, sử dụng thông tin dân cư.
Về nguyên nhân khiến các địa phương hạn chế trong khai thác, sử dụng thông tin dân cư, Cục C06 cho rằng, việc này xuất phát từ việc các bộ, ngành chưa cắt giảm thủ tục hành chính theo ngành dọc của mình, dẫn đến cán bộ tiếp nhận hồ sơ sợ sai sót, sợ bị kỷ luật nên không thực hiện khai thác thông tin trong Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, qua đó vẫn yêu cầu công dân phải cung cấp giấy tờ xác nhận thông tin về cư trú. Cùng với đó, cán bộ, công chức khi thực thi công vụ không thực hiện đúng quy định, hướng dẫn, gây khó khăn, phiền hà cho công dân, tạo dư luận xấu.
Hạ tầng dữ liệu và pháp lý đã đầy đủ
Để phục vụ giải quyết thủ tục hành chính công, Luật Cư trú năm 2020, trong đó có quy định bỏ sổ hộ khẩu giấy, sổ tạm trú giấy từ ngày 1/1/2023, trước đó Bộ Công an đã hoàn thiện hành lang pháp lý, cũng như các điều kiện kỹ thuật để các bộ, ngành, địa phương khai thác thông tin công dân trong Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư. Bộ Công an đã chuẩn bị các điều kiện, giải pháp phục vụ quy định của Luật Cư trú về bỏ sổ hộ khẩu giấy và tạm trú giấy.
“Có hai phần việc quan trọng và khó nhất, đó là xây dựng hạ tầng dữ liệu và pháp lý thực hiện Luật Cư trú, bỏ sổ hộ khẩu giấy, tạm trú giấy thì Bộ Công an đã hoàn thành trước thời điểm 1/1/2023,” Đại tá Vũ Văn Tấn khẳng định.
Bộ Công an đã tham mưu Chính phủ ban hành Nghị định số 104/2022/NĐ-CP ngày 21/12/2022 về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của các Nghị định liên quan đến việc nộp, xuất trình sổ hộ khẩu, sổ tạm trú giấy khi thực hiện thủ tục hành chính, cung cấp dịch vụ công.
Thông tin dữ liệu được tích hợp tại thẻ căn cước công dân gắn chíp. (Ảnh: TTXVN phát)
Trong Nghị định 104/2022/NĐ-NQ đã quy định cụ thể việc cơ quan có thẩm quyền, cán bộ, công chức, viên chức, cá nhân được giao trách nhiệm tiếp nhận, giải quyết thủ tục hành chính, cung cấp dịch vụ công phải khai thác, sử dụng thông tin về cư trú của công dân trong Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư để giải quyết thủ tục hành chính, cung cấp dịch vụ công.
Bên cạnh đó, Bộ Công an cũng phối hợp với Văn phòng Chính phủ ban hành hướng dẫn số 761/VPCP-KSTT ngày 29/1/2022, hướng dẫn các bộ, cơ quan ngang bộ, Chủ tịch Ủy ban Nhân dân các địa phương kết nối, tích hợp với Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư phục vụ xác thực, chia sẻ thông tin công dân khi thực hiện thủ tục hành chính theo nguyên tắc không yêu cầu khai báo lại các thông tin đã có trong Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư.
Cũng theo đại diện Cục C06, trách nhiệm của các bộ, ngành, địa phương trong tổ chức thực hiện quy định của Luật Cư trú về bỏ sổ hộ khẩu giấy, sổ tạm trú giấy được quy định rõ ràng.
Cụ thể, tại Điều 38 Luật Cư trú năm 2020, các bộ, cơ quan ngang bộ và cơ quan khác có liên quan rà soát các văn bản quy phạm pháp luật thuộc thẩm quyền ban hành có nội dung quy định liên quan đến sổ hộ khẩu, sổ tạm trú hoặc có yêu cầu xuất trình giấy tờ, tài liệu xác nhận về cư trú để sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với quy định của luật này, hạn chế việc sử dụng thông tin về nơi cư trú là điều kiện để thực hiện các thủ tục hành chính.
Để thực hiện quy định nêu trên, các bộ, ngành, địa phương cần rà soát để sửa đổi, bổ sung văn bản quy phạm pháp luật có nội dung quy định liên quan đến sổ hộ khẩu, sổ tạm trú hoặc có yêu cầu xuất trình giấy tờ, tài liệu xác nhận về cư trú. Ban hành quyết định công bố thủ tục hành chính có yêu cầu công dân nộp bản sao hoặc xuất trình giấy tờ có giá trị chứng minh thông tin về cư trú theo quy định thuộc phạm vi chức năng quản lý của mình.
Hiện Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư chỉ cung cấp 18 nhóm thông tin công dân theo quy định của Luật Cư trú để các cơ quan, đơn vị sử dụng khi giải quyết thủ tục hành chính. Trường hợp cần các nhóm thông tin khác thì bộ, ngành đó phải khai thác thông qua Cơ sở dữ liệu chuyên ngành hoặc qua công tác nghiệp vụ chuyên ngành. Một nhiệm vụ rất quan trọng mà các bộ, ngành, địa phương phải tập trung thực hiện, đó là hoàn thiện điều kiện hạ tầng kỹ thuật để kết nối khai thác, sử dụng thông tin trong Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư.
Do đó, các bộ, ngành, địa phương cần chỉ đạo tổ chức, cá nhân thuộc ngành dọc của mình thực hiện nghiêm túc quy định về việc sử dụng thông tin công dân trong Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, không yêu cầu xuất trình giấy tờ xác nhận thông tin cư trú; tăng cường kiểm tra và xử lý nghiêm cán bộ, công chức, viên chức vi phạm các quy định nêu trên theo thẩm quyền./.
Trong tháng 3-2023, một số chính sách mới, trong đó có các chính sách về nhân sự và việc làm có hiệu lực.
Cấp hộ chiếu phổ thông có gắn chíp điện tử từ ngày 1-3-2023.
Triển khai cấp Hộ chiếu phổ thông có gắn chíp điện tử cho công dân Việt Nam
Theo thông tin từ Cục Xuất nhập cảnh, Bộ Công an, từ 1-3-2023, Bộ Công an sẽ triển khai cấp Hộ chiếu phổ thông có gắn chíp điện tử cho công dân Việt Nam theo Luật Xuất cảnh, nhập cảnh của công dân Việt Nam.
Cục Xuất nhập cảnh cho biết, Hộ chiếu gắn chíp điện tử là điều kiện tiên quyết và là cơ sở để tự động hóa công tác kiểm soát cửa khẩu, tạo thuận lợi cho việc đi lại, xuất nhập cảnh giữa các nước.
Người được cấp hộ chiếu gắn chíp điện tử sẽ được phía nước ngoài ưu tiên khi xét duyệt cấp thị thực nhập cảnh. Hiện nay, trên thế giới có trên 100 quốc gia và vùng lãnh thổ sử dụng hộ chiếu điện tử.
Hộ chiếu gắn chíp điện tử có tính bảo mật thông tin cao, vì được lưu trữ trong con chíp, rất khó sao chép thông tin.
Việc phát hành hộ chiếu điện tử không những tạo điều kiện cho người dân trong hoạt động xuất, nhập cảnh, mà còn phù hợp với Chính phủ điện tử, tạo bước đột phá trong phát triển kinh tế - xã hội; nâng cao vị thế của hộ chiếu Việt Nam, thúc đẩy quá trình hội nhập của Việt Nam trong khu vực và thế giới.
Hộ chiếu phổ thông không gắn chíp điện tử và hộ chiếu phổ thông có gắn chíp điện tử được sử dụng song hành. Khi nộp hồ sơ đề nghị cấp hộ chiếu, công dân Việt Nam từ đủ 14 tuổi trở lên có quyền được lựa chọn cấp hộ chiếu không gắn chíp điện tử hoặc cấp hộ chiếu có gắn chíp điện tử.
Công dân Việt Nam đã được cấp hộ chiếu phổ thông không gắn chíp điện tử sẽ được tiếp tục sử dụng đến khi hết thời hạn của hộ chiếu, không bắt buộc phải đổi sang hộ chiếu có gắn chíp điện tử.
Hướng dẫn quản lý, thu chi tiền công đức, tài trợ cho di tích, hoạt động lễ hội
Bộ Tài chính ban hành Thông tư số 04/2023/TT-BTC hướng dẫn quản lý, thu chi tài chính cho công tác tổ chức lễ hội và tiền công đức, tài trợ cho di tích và hoạt động lễ hội, có hiệu lực thi hành từ ngày 19-3-2023.
Thông tư 04/2023/TT-BTC quy định rõ về tiếp nhận tiền công đức, tài trợ. Theo đó, mở tài khoản tiền gửi tại Kho bạc Nhà nước hoặc ngân hàng thương mại để phản ánh việc tiếp nhận, quản lý và sử dụng tiền công đức, tài trợ cho di tích và hoạt động lễ hội theo hình thức chuyển khoản, phương thức thanh toán điện tử.
Đối với quản lý, sử dụng tiền công đức, tài trợ cho di tích đồng thời là cơ sở tôn giáo: Người đại diện cơ sở tôn giáo tự quyết định và chịu trách nhiệm về tiếp nhận, quản lý, sử dụng tiền công đức, tài trợ cho việc bảo vệ, phát huy giá trị di tích và hoạt động lễ hội, bảo đảm phù hợp với quy định của pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo, pháp luật về di sản văn hóa và pháp luật khác có liên quan.
Quản lý, sử dụng tiền công đức, tài trợ cho di tích đồng thời là cơ sở tín ngưỡng: Người đại diện cơ sở tín ngưỡng tự quyết định và chịu trách nhiệm về tiếp nhận, quản lý, sử dụng tiền công đức, tài trợ cho việc bảo vệ, phát huy giá trị di tích và hoạt động lễ hội, bảo đảm phù hợp với quy định của pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo, pháp luật về di sản văn hóa và pháp luật khác có liên quan.
Quản lý, sử dụng tiền công đức, tài trợ cho di tích thuộc sở hữu tư nhân: Chủ sở hữu di tích tự quyết định và chịu trách nhiệm về tiếp nhận, quản lý, sử dụng tiền công đức, tài trợ cho việc bảo vệ, phát huy giá trị di tích và hoạt động lễ hội, bảo đảm phù hợp với quy định của pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo, pháp luật về di sản văn hóa và pháp luật khác có liên quan.
Bổ nhiệm, miễn nhiệm thành viên Hội đồng quản lý trong đơn vị sự nghiệp công lập thuộc lĩnh vực tài chính
Thông tư số 11/2023/TT-BTC của Bộ Tài chính hướng dẫn về Hội đồng quản lý và tiêu chuẩn, điều kiện bổ nhiệm, miễn nhiệm thành viên Hội đồng quản lý trong đơn vị sự nghiệp công lập thuộc lĩnh vực tài chính có hiệu lực từ ngày 31-3-2023.
Theo Thông tư, cơ cấu Hội đồng quản lý gồm: Đại diện cơ quan quản lý cấp trên của đơn vị sự nghiệp công lập, gồm đại diện của bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, tổ chức do Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ thành lập mà không phải là đơn vị sự nghiệp công lập, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh và cơ quan quản lý cấp trên trực tiếp (nếu có); người đứng đầu đơn vị sự nghiệp công lập; viên chức của đơn vị sự nghiệp công lập; đại diện tổ chức, đơn vị liên quan.
Số lượng thành viên Hội đồng quản lý từ 5 đến 11 người, gồm Chủ tịch Hội đồng quản lý, Thư ký Hội đồng quản lý và các thành viên Hội đồng quản lý. Tùy theo yêu cầu nhiệm vụ, Hội đồng quản lý có thể có Phó Chủ tịch Hội đồng quản lý. Số lượng, cơ cấu thành viên Hội đồng quản lý của từng đơn vị sự nghiệp công lập cụ thể do người đứng đầu cơ quan có thẩm quyền phê duyệt Đề án tự chủ của đơn vị sự nghiệp công lập quyết định.
Chủ tịch Hội đồng quản lý do người đứng đầu cơ quan có thẩm quyền phê duyệt Đề án tự chủ của đơn vị sự nghiệp công lập lựa chọn, bổ nhiệm từ đại diện lãnh đạo của đơn vị sự nghiệp công lập hoặc đại diện cơ quan quản lý cấp trên của đơn vị sự nghiệp công lập.
Nhiệm kỳ của thành viên Hội đồng quản lý không quá 5 năm.
Chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của Hội đồng quản lý thực hiện theo quy định tại khoản 3 Điều 7 Nghị định số 120/2020/NĐ-CP.
Danh mục, thời hạn định kỳ chuyển đổi vị trí công tác trong lĩnh vực thông tin và truyền thông
Thông tư 01/2023/TT-BTTTT của Bộ Thông tin và Truyền thông quy định danh mục và thời hạn định kỳ chuyển đổi vị trí công tác trong lĩnh vực thông tin và truyền thông tại chính quyền địa phương có hiệu lực từ 17-3-2023.
Thông tư quy định, thời hạn định kỳ chuyển đổi vị trí công tác quy định tại Điều 4 của Thông tư này là từ đủ 3 năm (36 tháng) đến 5 năm (đủ 60 tháng) không bao gồm thời gian tập sự, thử việc.
Thời điểm tính thời hạn chuyển đổi vị trí công tác là thời điểm có văn bản điều động, bố trí, phân công nhiệm vụ của cấp có thẩm quyền theo quy định.
10 vị trí việc làm lãnh đạo, quản lý ngành Ngân hàng
Thông tư 21/2022/TT-NHNN hướng dẫn vị trí việc làm lãnh đạo, quản lý và chức danh nghề nghiệp chuyên ngành trong các đơn vị sự nghiệp công lập thuộc lĩnh vực Ngân hàng có hiệu lực thi hành kể từ ngày 1-3-2023.
Thông tư nêu rõ, vị trí việc làm lãnh đạo, quản lý và chức danh nghề nghiệp chuyên ngành trong các đơn vị sự nghiệp công lập thuộc lĩnh vực Ngân hàng được xác định trên cơ sở nguyên tắc quy định tại Điều 3 Nghị định số 62/2020/NĐ-CP ngày 1-6-2020 của Chính phủ về vị trí việc làm và biên chế công chức.
Căn cứ xác định vị trí việc làm lãnh đạo, quản lý và chức danh nghề nghiệp chuyên ngành trong các đơn vị sự nghiệp công lập thuộc lĩnh vực Ngân hàng thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 4 Nghị định số 62/2020/NĐ-CP.
Thông tư nêu rõ 10 vị trí việc làm lãnh đạo, quản lý trong các đơn vị sự nghiệp công lập thuộc lĩnh vực Ngân hàng gồm: Chủ tịch Hội đồng quản lý; Thành viên Hội đồng quản lý; Tổng Giám đốc; Phó Tổng Giám đốc; Trưởng phòng và tương đương; Phó Trưởng phòng và tương đương; Giám đốc chi nhánh; Phó Giám đốc chi nhánh; Trưởng phòng và tương đương trực thuộc Chi nhánh; Phó Trưởng phòng và tương đương trực thuộc Chi nhánh.
Bên cạnh đó, Thông tư cũng nêu rõ nội dung của các bản mô tả công việc bao gồm: Mục tiêu vị trí việc làm; các công việc và tiêu chí đánh giá; các mối quan hệ công việc; phạm vi quyền hạn; yêu cầu về trình độ, năng lực...
Không còn các tiêu chuẩn về ngoại ngữ, tin học với chấp hành viên
Theo quy định mới tại Thông tư số 10/2023/TT-BQP, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 16-3-2023, các tiêu chuẩn đối với chấp hành viên ngành Thi hành án Quân đội đã được rút gọn, không còn các tiêu chuẩn về ngoại ngữ, tin học.
Cụ thể, chấp hành viên sơ cấp phải có đủ tiêu chuẩn theo quy định tại khoản 5 Điều 18 Luật Thi hành án dân sự và Điều 4 Thông tư này; có chứng chỉ bồi dưỡng kiến thức quản lý nhà nước và nghiệp vụ thi hành án dân sự theo nội dung, chương trình của Bộ Tư pháp.
Chấp hành viên trung cấp phải có đủ tiêu chuẩn theo quy định tại khoản 5 Điều 18 Luật Thi hành án dân sự và Điều 4 Thông tư này; có chứng chỉ bồi dưỡng kiến thức quản lý nhà nước và nghiệp vụ thi hành án dân sự chính theo nội dung, chương trình của Bộ Tư pháp.
Chấp hành viên cao cấp phải có đủ tiêu chuẩn theo quy định tại khoản 5 Điều 18 Luật Thi hành án dân sự và Điều 4 Thông tư này; có bằng tốt nghiệp cao cấp lý luận chính trị hoặc cao cấp lý luận chính trị - hành chính hoặc cử nhân chính trị, hoặc có giấy xác nhận trình độ lý luận tương đương cao cấp lý luận chính trị theo quy định; có chứng chỉ bồi dưỡng kiến thức quản lý nhà nước và nghiệp vụ thi hành án dân sự cao cấp theo nội dung, chương trình của Bộ Tư pháp.
Tăng mức bồi dưỡng bằng hiện vật đối với người lao động
Theo Thông tư 24/2022/TT-BLĐTBXH của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội quy định việc bồi dưỡng bằng hiện vật đối với người lao động làm việc trong điều kiện có yếu tố nguy hiểm, yếu tố độc hại có hiệu lực từ ngày 1-3-2023, mức bồi dưỡng bằng hiện vật được tính theo định suất hàng ngày và có giá trị bằng tiền như sau: Mức 1: 13.000 đồng (tăng 3.000 đồng); Mức 2: 20.000 đồng (tăng 5.000 đồng); Mức 3: 26.000 đồng (tăng 6.000 đồng); Mức 4: 32.000 đồng (tăng 7.000 đồng).
Đối với người lao động đủ điều kiện hưởng bồi dưỡng thì mức bồi dưỡng cụ thể theo từng nghề, công việc được quy định tại Phụ lục I của Thông tư 24/2022/TT-BLĐTBXH và được áp dụng theo thời gian làm việc tương ứng như sau: Nếu làm việc từ 50% thời giờ làm việc bình thường trở lên của ngày làm việc thì được hưởng cả định suất bồi dưỡng. Nếu làm dưới 50% thời giờ làm việc bình thường của ngày làm việc thì được hưởng nửa định suất bồi dưỡng. Trong trường hợp người lao động làm thêm giờ, định suất bồi dưỡng bằng hiện vật được tăng lên tương ứng với số giờ làm thêm theo nguyên tắc trên.
Thông tư nêu rõ, việc tổ chức bồi dưỡng bằng hiện vật phải thực hiện trong ca, ngày làm việc, bảo đảm thuận tiện, an toàn, vệ sinh thực phẩm.
Trường hợp người lao động làm công việc lưu động, phân tán, ít người hoặc các công việc khác có tổ chức lao động không ổn định mà không thể tổ chức bồi dưỡng tập trung tại chỗ, người sử dụng lao động phải cấp hiện vật cho người lao động để người lao động có trách nhiệm tự bồi dưỡng theo quy định.
Trong trường hợp này, người sử dụng lao động phải lập danh sách cấp phát, có ký nhận của người lao động; thường xuyên kiểm tra việc thực hiện bồi dưỡng của người lao động.
Không được trả bằng tiền, không được trả vào lương (bao gồm cả việc đưa vào đơn giá tiền lương) thay cho hiện vật bồi dưỡng.
Những năm gần đây, thực hiện chuyển đổi số được coi là nhiệm vụ quan trọng, góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Đối với ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh, thực hiện chuyển đổi số đã và đang mở ra những cơ hội, không gian phát triển mới cho ngành.
Bảo tàng tỉnh ứng dụng phần mềm Quản lý thông tin hiện vật trong hoạt động nghiệp vụ
Một trong những đơn vị trực thuộc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch đang đẩy mạnh thực hiện chuyển đổi số đó là Thư viện tỉnh. Nhằm phát huy vai trò của ngành thư viện trong thời đại 4.0, Thư viện tỉnh đã có nhiều nỗ lực và giải pháp ứng dụng công nghệ thông tin trong các khâu nghiệp vụ nhằm hướng đến mục tiêu xây dựng môi trường đọc hiện đại và linh hoạt, phục vụ độc giả một cách tốt nhất. Từ năm 2012, Thư viện tỉnh được trang bị một hệ thống phần mềm và các trang thiết bị như: Máy chủ, thiết bị lưu trữ, thiết bị mạng, thiết bị đọc... bảo đảm công tác quản lý, lưu trữ. Năm 2017, Thư viện tỉnh triển khai xây dựng cổng thông tin điện tử riêng (http://thuvienhungyen.vn) với giải pháp tích hợp phần mềm quản lý tài liệu số, phân loại thông tin, lưu trữ đa dạng hóa thông tin (hình ảnh, văn bản, âm thanh, video...) đáp ứng lượng thông tin lớn. Đồng chí Đào Văn Quyến, Giám đốc Thư viện tỉnh cho biết: Thực hiện Chương trình chuyển đổi số ngành thư viện đến năm 2025, định hướng đến năm 2030, đơn vị đang tập trung phát triển thư viện số, bảo đảm cung ứng hiệu quả dịch vụ cho độc giả ở mọi nơi, mọi lúc. Cụ thể, ngoài quản lý thẻ, cấp thẻ thông qua phần mềm điện tử, Thư viện tỉnh còn triển khai số hóa tài liệu địa chí, tài liệu quý hiếm, có giá trị. Đến nay, Thư viện tỉnh đã số hóa 34.000 trang tài liệu địa chí; 4.500 trang dữ liệu báo, tạp chí; 200 trang dữ liệu tranh, ảnh, bản đồ; 36.650 trang tài liệu Hán Nôm…
Những năm qua, Bảo tàng tỉnh cũng nỗ lực ứng dụng công nghệ thông tin trong các hoạt động lưu trữ, bảo tồn, phát huy các giá trị di sản văn hóa, đáp ứng nhu cầu tham quan, nghiên cứu của Nhân dân và du khách. Bảo tàng tỉnh đã nhận chuyển giao sử dụng phần mềm Quản lý thông tin hiện vật do Cục Di sản Văn hóa (Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) triển khai. Đồng chí Bùi Đăng Quy, Giám đốc Bảo tàng tỉnh cho biết: Nhờ ứng dụng phần mềm Quản lý thông tin hiện vật, Bảo tàng tỉnh có thể quản lý chặt chẽ các bộ sưu tập hiện vật theo phương pháp hiện đại, phù hợp với thời buổi khoa học công nghệ phát triển nhanh. Phần mềm còn giúp bảo quản hồ sơ hiện vật của Bảo tàng, di tích tốt hơn vì hạn chế được tình trạng phải mở sổ tra cứu trực tiếp, thuận tiện cho việc đăng nhập hồ sơ hiện vật mới. Việc lưu trữ, sắp xếp, tìm kiếm, thống kê, báo cáo, in ấn, trao đổi thông tin cũng được nhanh chóng, chính xác, khoa học. Cùng với việc số hóa công tác kiểm kê, quản lý hiện vật, hiện nay trên cổng thông tin điện tử và trang mạng xã hội Facebook chính thức của Bảo tàng tỉnh thường xuyên cập nhật các thông tin về hiện vật hay các hoạt động của Bảo tàng tỉnh để tuyên truyền rộng rãi đến đông đảo các tầng lớp Nhân dân. Đặc biệt, Bảo tàng tỉnh đã thực hiện số hóa 3D một số hiện vật tiêu biểu và các bảo vật quốc gia trên địa bàn tỉnh như: Trống đồng Động Xá; Quan tài thời kỳ văn hóa Đông Sơn; Tượng Quan Âm Thiên Thủ Thiên Nhãn ở chùa Mễ Sở, xã Mễ Sở (Văn Giang); Bệ tượng Phật đá hoa sen ở chùa Hương Lãng, xã Minh Hải (Văn Lâm); Di tích lịch sử quốc gia Địa điểm Cây đa và Đền La Tiến ở xã Nguyên Hòa (Phù Cừ)… nhằm giới thiệu các hiện vật có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, thẩm mỹ đến với công chúng được mở rộng và dễ dàng hơn so với cách trưng bày truyền thống.
Nhận thức tầm quan trọng của chuyển đổi số trong thực hiện các nhiệm vụ chuyên môn, ngày 8/4/2022, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã ban hành Kế hoạch số 23/KH-SVHTTDL thực hiện chuyển đổi số ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2030 với các mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp cụ thể. Trong đó, các nhiệm vụ, giải pháp được chia làm 5 nhóm, gồm: Chuyển đổi nhận thức về chuyển đổi số; kiến tạo thể chế về chuyển đổi số; xây dựng hạ tầng số; phát triển nền tảng số và bảo đảm an toàn, an ninh mạng. Đồng chí Đào Mạnh Huân, Phó Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch cho biết: Ngành văn hóa thời gian tới sẽ tiếp tục đẩy mạnh chuyển đổi số trên cơ sở lựa chọn, ưu tiên các lĩnh vực quan trọng, trong đó, đẩy nhanh tiến độ thực hiện tổng kiểm kê di sản văn hóa, lễ hội trên địa bàn tỉnh. Việc này tạo cơ sở để cung cấp nguồn thông tin, dữ liệu đầu vào phục vụ cho mục đích chuyển đổi số trong lĩnh vực di sản văn hóa. Ngoài ra, tập trung thực hiện số hóa và triển khai ứng dụng trên các nền tảng số đối với di sản văn hóa vật thể, phi vật thể và di tích đã được xếp hạng. Việc số hóa và ứng dụng các thành tựu khoa học công nghệ được xem là một bước tiến quan trọng để làm tốt công tác bảo tồn, phát huy giá trị di sản. Đồng thời, đây sẽ là cầu nối để đưa các di sản văn hóa đến gần hơn với công chúng, thu hút khách du lịch, góp phần phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.
Với phương châm lấy người nộp thuế (NNT) làm trung tâm để phục vụ, cùng với cả nước, ngành Thuế tỉnh đã và đang triển khai nhiều ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác quản lý thuế, từng bước thực hiện hiệu quả tiến trình chuyển đổi số. Qua đó, tạo thuận lợi cho NNT, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác quản lý thuế.
Hoạt động nghiệp vụ tại Cục Thuế tỉnh
Một trong những dấu ấn quan trọng của ngành Thuế trong thời gian qua là việc ứng dụng công nghệ thông tin để cải cách thủ tục hành chính, tạo thuận lợi cho người dân và doanh nghiệp. Điển hình là triển khai thực hiện các dịch vụ thuế điện tử như: Khai thuế điện tử, nộp thuế điện tử, hoàn thuế điện tử... Toàn ngành Thuế đã đưa vào vận hành hàng loạt giải pháp số hóa trong công tác quản lý, khai thác các khoản thu vào ngân sách nhà nước.
Theo báo cáo của Cục Thuế tỉnh, đến thời điểm hiện tại, tỷ lệ khai thuế qua mạng đạt 99% tổng số doanh nghiệp đang hoạt động; tỷ lệ đăng ký nộp thuế điện tử đạt 99% tổng số doanh nghiệp đang hoạt động. Các cơ quan thuế thực hiện hoàn thuế điện tử đối với 100% hồ sơ hoàn thuế giá trị gia tăng, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp trong quá trình giao dịch thủ tục hành chính. “Điểm nhấn” quan trọng trong quá trình chuyển đổi số là ngành Thuế tỉnh đã triển khai thành công hóa đơn điện tử (HÐÐT). Đến nay có 100% số doanh nghiệp, hộ cá nhân kinh doanh trong tỉnh chuyển đổi sử dụng HĐĐT. Ðể khuyến khích người tiêu dùng mua hàng lấy hóa đơn, ngành Thuế tỉnh tổ chức hiệu quả chương trình lựa chọn “Hóa đơn may mắn” kỳ quý II, quý III, quý IV năm 2022. Kết quả đã lựa chọn 162 hóa đơn may mắn trúng thưởng với tổng trị giá 240 triệu đồng và tổ chức trao thưởng đúng theo quy định.
Tiếp nối những thành công trên, ngành Thuế đang khẩn trương triển khai áp dụng HÐÐT có mã của cơ quan thuế được khởi tạo từ máy tính tiền, đây là hình thức hóa đơn có lợi hơn cho cả người bán và người mua. Việc triển khai hóa đơn điện tử là một trong những nội dung quan trọng nhằm thúc đẩy chuyển đổi số tại các doanh nghiệp, chuyển đổi số đối với cơ quan tài chính cũng như trong các cơ quan nhà nước khác. Tổ chức, cá nhân mua hàng hóa, dịch vụ có thể dễ dàng tra cứu và đối chiếu được hóa đơn điện tử do người bán cung cấp. Sử dụng hóa đơn điện tử giúp doanh nghiệp giảm chi phí hơn so với sử dụng hóa đơn giấy, giảm chi phí tuân thủ thủ tục hành chính thuế.
Cùng với việc tổ chức, đơn vị, doanh nghiệp trên địa bàn sử dụng hóa đơn điện tử, ngành Thuế tỉnh đẩy mạnh triển khai ứng dụng eTax Mobile. Đây là ứng dụng có nhiều ưu điểm, mang lại nhiều lợi ích cho người nộp thuế và được coi là khâu rất quan trọng trong chuyển đổi số, là xu thế tất yếu nhằm xây dựng hệ thống quản trị tài chính công hiện đại, minh bạch. Ứng dụng eTax Mobile, do được xây dựng gắn với xu thế chung của các ứng dụng di động thông minh, đã giúp cá nhân, hộ kinh doanh chủ động hơn trong việc tra cứu các thông tin về thuế thu nhập cá nhân, giá trị gia tăng và thực hiện nghĩa vụ thuế một cách dễ dàng, nhanh chóng mà không cần phải đến trực tiếp, gọi điện, gửi mail cho cơ quan thuế… Theo thống kê, đến nay đã có hơn 5.400 lượt hộ, cá nhân kinh doanh tiến hành tải, cài đặt, sử dụng ứng dụng eTax Mobile.
Trước nhu cầu tiếp cận thông tin về thuế của NNT, bên cạnh các phương thức tuyên truyền hỗ trợ truyền thống, Cục Thuế tỉnh đã nỗ lực đưa ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác tuyên truyền hỗ trợ NNT. Website của Cục Thuế thường xuyên cập nhật các văn bản quy phạm pháp luật về thuế, các chính sách thuế mới; các văn bản giải đáp vướng mắc của NNT... Ngoài ra, Cục Thuế tỉnh tạo trang fanpage, Zalo kết nối, trao đổi thông tin với NNT. Thực tế công tác triển khai tuyên truyền cho thấy, mạng xã hội là một phương thức tuyên truyền hiệu quả bởi tính kịp thời và thuận tiện. Thông tin từ cơ quan thuế được chuyển trực tiếp tới NNT thông qua tài khoản Zalo, NNT không mất thời gian tra cứu, tìm hiểu mà tiếp nhận thông tin một cách chính thống từ cơ quan quản lý thuế…
Bám sát chương trình chuyển đổi số quốc gia, cũng như chỉ đạo của Bộ Tài chính, Tổng cục Thuế, UBND tỉnh, thời gian tới, ngành Thuế tỉnh tiếp tục đẩy mạnh chuyển đổi số, hiện đại hóa công tác quản lý thuế. Trong đó tập trung hoàn thiện chính sách, hạ tầng để triển khai áp dụng HÐÐT khởi tạo từ máy tính tiền theo quy định. Đồng thời, tiếp tục triển khai các đề án về dịch vụ công trực tuyến mức độ 3, mức độ 4, duy trì hệ thống khai thuế điện tử, nộp thuế điện tử, hoàn thuế điện tử. Với mục tiêu lấy người nộp thuế làm trung tâm phục vụ, Cục Thuế tỉnh tiếp tục đổi mới, sáng tạo trong tiến trình chuyển đổi số của ngành theo hướng hiện đại, minh bạch; tiếp tục hoàn chỉnh các quy trình giải quyết thủ tục hành chính phù hợp với thực tiễn và quy định hiện hành.
Hiện nay, tỉnh đang chi trả trợ cấp ưu đãi hằng tháng cho 22.170 người có công và thân nhân người có công với cách mạng với tổng kinh phí trên 42 tỷ đồng/tháng. Việc chi trả trợ cấp ưu đãi hằng tháng được thực hiện qua hệ thống bưu điện bảo đảm đúng, đủ, kịp thời.
Cùng với đó, công tác tiếp nhận hồ sơ và giải quyết các chế độ chính sách đối với người có công được hưởng chế độ trợ cấp một lần, chăm sóc sức khỏe, cải thiện nhà ở, ưu đãi trong y tế, giáo dục đào tạo... được thực hiện tốt góp phần nâng cao đời sống vật chất, tinh thần đối với người có công với cách mạng.
Ngày 10/01/2023, Uỷ ban nhân dân tỉnh ban hành Kế hoạch số 03/KH-UBND về triển khai Đề án phát triển thanh toán không dùng tiền mặt trên địa bàn tỉnh Hưng Yên giai đoạn 2021-2025.
Theo đó, mục tiêu tổng quát của Kế hoạch là: Tạo sự chuyển biến tích cực về thanh toán không dùng tiền mặt trong nền kinh tế với mức tăng trưởng cao, đưa việc sử dụng các phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt trong xã hội thành thói quan của người dân khu vực đô thị và từng bước phát triển ở khu vực nông thôn, vùng sâu, vùng xa; giảm chi phí xã hội liên quan đến tiền mặt; Ứng dụng mạnh mẽ thành tựu của cách mạng công nghệ 4.0 để nâng cấp, phát triển cơ sở hạ tầng thanh toán, dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt, đáp ứng nhu cầu thanh toán một cách thuận tiện, hiệu quả của tổ chức, cá nhân; Đảm bảo an ninh, an toàn, bảo mật trong hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt; nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống ngân hàng và hiệu quả quản lý giám sát của các cơ quan quản lý Nhà nước, minh bạch hoá các giao dịch thanh toán trong nền kinh tế, góp phần vào công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, tội phạm kinh tế, phòng chống rửa tiền, tài trợ khủng bố.
Mục tiêu cụ thể đến cuối năm 2025:
- Giá trị thanh toán không dùng tiền mặt đạt gấp 15 lần GRDP.
- Thanh toán không dùng tiền mặt trong thương mại điện tử đạt 50%: Phấn đấu 100% các siêu thị, nhà hàng, trung tâm mua sắm và cơ sở phân phối, tiêu thụ hàng hoá trên địa bàn tỉnh thực hiện lắp đặt các thiết bị chấp nhận thẻ thanh toán hoặc sử dụng các phương thức thanh toán không dùng tiền mặt khác, tạo điều kiện cho người tiêu dùng thanh toán không dùng tiền mặt khi mua hàng hoá, thanh toán dịch vụ một cách thuận lợi, dễ dàng.
- 80% người dân 15 tuổi trở lên có tài khoản giao dịch tại ngân hàng hoặc các tổ chức được phép khác.
- Tăng khả năng tiếp cận các dịch vụ thanh toán của người dân; tăng số lượng điểm chấp nhận thanh toán không dùng tiền mặt trên địa bàn tỉnh lên trên 2.000 điểm.
- Mục tiêu tăng trưởng sử dụng phương tiện, dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt:
+ Tốc độ tăng trưởng bình quân về số lượng giao dịch thanh toán không dùng tiền mặt đạt 30-35%/năm và giá trị đạt 20-25%/năm
+ Tốc độ tăng trưởng bình quân về số lượng giao dịch qua kênh điện thoại di động đạt 50-80%/năm và giá trị giao dịch đạt 80-100%/năm.
+ Tốc độ tăng trưởng bình quân về số lượng và giá trị giao dịch qua kênh Internet đạt 30-40%/năm.
+ Tỷ lệ cá nhân, tổ chức sử dụng phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt qua các kênh thanh toán điện tử đạt 40%.
- Mục tiêu thanh toán không dùng tiền mặt đối với dịch vụ công.
+ Phấn đấu 100% cơ sở giáo dục trên địa bàn đô thị chấp nhận thanh toán học phí bằng phương thức thanh toán không dùng tiền mặt, số tiền thu học phí qua phương thức thanh toán không dùng tiền mặt trên tổng số tiền học phí phải thu đạt từ 50% trở lên; 100% các trường đại học, cao đẳng trên địa bàn tỉnh triển khai thanh toán học phí trực tuyến trên Cổng Dịch vụ công tỉnh Hưng Yên hoặc Cổng Dịch vụ công Quốc gia.
+ Phấn đấu 100% các cơ sở khám, chữa bệnh trên địa bàn đô thị chấp nhận thanh toán dịch vụ y tế bằng phương thức thanh toán không dùng tiền mặt.
+ 100% các đơn vị cung cấp dịch vụ điện, nước, viễn thông, truyền hình trả tiền triển khai thu cước phí theo hình thức thanh toán không dùng tiền mặt.
+ Từ 60% số người hưởng lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội, trợ cấp thất nghiệp trên địa bàn đô thị được chi trả thông qua các phương thức thanh toán không dùng tiền mặt.
Kế hoạch đề ra 07 giải pháp để phát triển thanh toán không dùng tiền mặt là: Giải pháp về cơ chế, chính sách nhằm tạo môi trường thuận lợi cho việc thực hiện các mục tiêu phát triển thanh toán không dùng tiền mặt; Phát triển hạ tầng thanh toán, hoạt động an toàn, hiệu quả và có khả năng kết nối, tích hợp với các hệ thống khác; Phát triển các dịch vụ thanh toán hiện đại, ứng dụng thành tựu của cách mạng công nghệ 4.0; Đẩy mạnh thanh toán điện tử trong dịch vụ hành chính công; Tăng cường thanh tra, kiểm tra, giám sát, đảm bảo an ninh, an toàn trong hoạt động thanh toán; Tăng cường đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền, phổ biến kiến thức hướng dẫn về phương thức thanh toán không dùng tiền mặt, thanh toán điện tử; Tăng cường cơ chế phối hợp thúc đẩy thanh toán không dùng tiền mặt.
Năm 2023, HĐND tỉnh giao dự toán thu ngân sách nội địa trên địa bàn tỉnh là 18.221 tỷ đồng. Đến hết tháng 1, ngành Thuế tỉnh thu ngân sách nhà nước ước đạt hơn 2.197 tỷ đồng, đạt trên 12% dự toán giao cả năm. Một số khoản thu, sắc thuế đạt kết quả khá là: Thu từ khu vực kinh tế ngoài quốc doanh, thu từ khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, thu tiền sử dụng đất, thu thuế thu nhập cá nhân…